Untitled Document
5 SAI LẦM THƯỜNG GẶP KHI SỬ DỤNG THIẾT BỊ THỦY LỰC CƠ GIỚI Lê Thuyết

Dưới đây là 5 sai lầm thường gặp khi sử dụng hệ thống thủy lực di động (thiết bị cơ giới) do Brendan Casey (người có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này, người có rất nhiều bài viết trên trang www.InsiderSecretsToHydraulics.com) liệt kê từ kinh nghiệm thực tế của ông.

Thiết bị cơ giới (hình minh họa sưu tầm internet)


1. THAY DẦU (changing the oil)

Có 2 điều kiện bắt buộc phải thay dầu thủy lực: sự xuống cấp của dầu gốc hoặc sự cạn kiệt phụ gia. Vì có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dầu gốc cũng như sự cạn kiệt phụ gia, việc thay dầu thường dựa trên số giờ làm việc mà không nhắc đến tình trạng thực tế của dầu. Việc này giống như đi săn trong bóng tối.

Hiện nay, giá dầu nhờn cao, vì vậy việc vứt bỏ dầu là điều cuối cùng mà bạn muốn làm. Mặc khác, nếu tiếp tục vận hành với dầu đã xuống cấp hoặc cạn kiệt phụ gia nghĩa là bạn đang đánh đổi tuổi thọ của các linh kiện trong hệ thống thủy lực. Cách duy nhất để biết được thời điểm thay dầu là thông qua việc phân tích dầu.

Ở Việt Nam việc phân tích dầu để tìm ra thời điểm thay dầu tối ưu cho từng thiết bị chưa được quan tâm. Các đơn vị thường dựa vào kinh nghiệm sử dụng dầu của mình để đưa ra chu kỳ thay dầu. Các kinh nghiệm này chỉ mang tính tương đối và không lường hết được tất cả các yếu tố quyết định đến tuổi thọ dầu. Sungbo Việt Nam có dịch hỗ trợ khách hàng lấy mẫu và tư vấn phân tích mẫu, đội ngũ ký thuật có kinh nghiệm giúp đánh giá cá thông số để đưa ra chu kỳ thay dầu tối ưu cho từng thiết bị.

2.  THAY LỌC (changing the filters)

Đây là tÌnh huống tương tự như việc thay dầu. Nếu bạn thay đổi chúng theo lịch thì bạn có thể thay lọc quá sớm hoặc quá muộn. Nếu bạn thay đổi quá sớm khi mà lọc dầu vẫn còn dung lượng giữ bẩn bạn sẽ lãng phí tiền vào việc mua lọc mới không cần thiết. Nếu bạn thay đổi lọc quá muộn, lọc dầu bị nghẹt, chất lỏng đi qua đường bypass (đường dẫn dầu phụ đề phòng lọc dầu bị nghẹt), lúc này tăng các hạt bẩn đi vào hệ thống làm giảm tuổi thọ các chi tiết trong hệ thống thủy lực – tốn nhiều chi phí hơn khi vận hành lâu dài.

Giải pháp thay lọc dầu của bạn là khi lọc dầu đạt hết khả năng giữ bẫn nhưng phải trước khi van bypass mở. Điều này phải đòi hỏi có sự theo dõi sự ngăn cản dòng chảy thông qua sử tổn hao áp suất qua bộ lọc. Thông số này cảnh báo bạn về thời điểm thay lọc dầu. Thiết bị cảnh báo sự tắc nghẽn lọc thường được bố trí trên cá thiết bị này. Một giải pháp tốt hơn là theo dõi sự tổn thất áp suất qua lọc.

3.  CHẠY QUÁ NÓNG (run too hot)

Rất ít chủ sở hữu thiết bị hoặc người vận hành tiếp tục vận hành khi động cơ quá nóng. Nhưng không may chúng ta thường lại không làm như vậy khi hệ thống thủy lực quá nóng. Nhưng giống như động cơ, cách nhanh nhất để phá hủy các linh kiện của hệ thống thủy lực, seal và cả dầu là khi chúng hoạt động ở nhiệt độ cao.

Như thế nào là quá nóng cho hệ thống thủy lực? Điều này phụ thuộc chủ yếu vào độ nhớt và chỉ số độ nhớt (tốc độ thay đổi độ nhớt theo nhiệt độ) của dầu và loại linh kiện trong hệ thống (ví dụ như bơm). Khi nhiệt độ dầu tăng thì độ nhớt giảm. Do đó, một hệ thống thủy lực đang ở điều kiện quá nóng khi nó đạt đến nhiệt độ mà độ nhớt giảm xuống dưới mức yêu cầu tối thiểu cho sự bôi trơn đầy đủ. Một chiếc bơm cánh gạt đòi hỏi độ nhớt chất lỏng tối thiểu cao hơn so với bơm piston. Đây là lý do loại linh kiện cũng ảnh hưởng tới nhiệt độ hoạt động tối đa an toàn của hệ thống thủy lực.

Ngoài vấn đề nhiệt độ ảnh hưởng đến sự bôi trơn đầy đủ thì có một vấn đề quan trọng không kém đó là nhiệt độ hoạt động vượt quá 82 oC sẽ làm phá hủy phần lớn các vật liệu tạo seal, vật liệu làm đường ống và tăng nhanh tốc độ xuống cấp của dầu. Nhưng nếu hệ thống thủy lực của bạn thỏa mãn các yếu tố đã nêu thì có thể hoạt động dưới nhiệt độ này.

4.  SỬ DỤNG SAI DẦU (using the wrong oil)

Dầu thủy lực là thành phần quan trọng nhất của bất kỳ hệ thống thủy lực nào. Dầu thủy lực không chỉ là chất bôi trơn mà còn là chất truyền tải năng lượng. Đó là vai trò kép làm cho độ nhớt trở thành yếu tố quan trọng của dầu nhờn bởi vì nó ảnh hưởng đến cả hiệu suất máy móc và thời gian làm việc. Độ nhớt dầu xác định được nhiệt độ tối thiểu và tối đa làm việc an toàn. Nếu bạn sử dụng dầu có độ nhớt quá cao so với khí hậu mà thiết bị hoạt động, dầu sẽ khó bơm và bôi trơn không đầy đủ trong suốt quá trình khởi động lạnh (20 phút làm việc đầu). Nếu bạn sử dụng dầu có độ nhớt quá thấp, sẽ không duy trì độ nhớt tối thiểu yêu cầu và vì thế sẽ không bôi trơn đây đủ khi thiết bị hoạt động trong những ngày nóng nhất của năm. Nếu độ nhớt hoạt động cao hơn độ nhớt lý tưởng sẽ làm mất nhiều năng lượng do ma sát lỏng. Nếu độ nhớt hoạt động thấp hơn lý tưởng sẽ làm mất nhiều năng lượng do ma sát rắn và làm rò rỉ dầu.

Sử dụng dầu nhớt sai không chỉ dẫn đến giảm sự bôi trơn mà còn hư hỏng các linh kiện và tăng tiêu thụ năng lượng (diesel, điện). đây là những điều mà chắc chắn rằng bạn không mong muốn. Lựa chọn độ nhớt của dầu còn phụ thuộc vào tình trạng thiết bị của bạn, bạn không nhất quyết chọn dầu mù quán theo sự chỉ dẫn của nhà chế tạo máy.

5.  ĐẶT SAI VỊ TRÍ CÁC BỘ LỌC (Wrong filter locations)

Có 2 vị trí lọc thủy lực có hại hơn là tốt và làm tăng tốc độ phá hủy thành phần trong hệ thống mà chúng được lắp đặt để bảo vệ. Những vị trí cần tránh đặt bộ lọc là đường vào của bơm và cửa xả của bơm và động cơ piston thủy lực.

Điều này có vẻ mâu thuẫn: cần có bộ lọc ở đường vào của bơm để bảo vệ bơm khỏi cặn rác. Thứ nhất, bơm hút dầu từ cácte và cácte không phải là nơi chứa cặn rác. Thứ 2, nếu bạn tin cặn rác đi vào cácte là điều bình thường thì bạn đã lãng phí thời gian đọc bài này. Tất nhiên cácte là nơi kín, bùn đất hoặc nước bên ngoài không thể đi vào được trừ khi là sự phá hoại có chủ đích.

Nếu tuổi thọ của bơm là mối quan tâm của bạn (điều này là dĩ nhiên) thì điều quan trọng là dầu cần điền đầy vào các buồng bơm hơn là bảo vệ nó khỏi cặn rác bởi thiết kế của bơm chỉ hút chất lỏng từ độ cao 2 inch (~5cm) so với đáy cácte. Theo các nghiên cứu chỉ ra rằng, hút thiếu chất lỏng vào bơm có thể gây giảm tuổi thọ bánh răng bơm 56%. Điều này tồi tệ hơn với bơm cánh gạt và bơm piston bởi thiết kế ít chịu được lực hút chân không do hút thiếu chất lỏng.

Và bộ lọc đặt trên đường tháo của bơm và động cơ piston thủy lực cũng gây hậu quả tương tự là làm giảm tuổi thọ linh kiện và gây hư hại nặng các chi tiết đắt tiền.



Trích dịch: Lê Thuyết
11.09.2017
Nguồn: 
http://machinerylubrication.com/